Hai cầu thép mang tên linh vật Rồng xây dựng đầu thế kỉ 20 (Phần 1)

Đánh giá

Đầu tháng 7/2020, chuyên mục cựu sinh viên hân hạnh nhận được bài viết rất hay và tâm huyết của anh Nhữ Đình Văn – cựu sinh viên K33 Khoa Cầu đường, Trường Đại học Xây dựng với tiêu đề “Hai cầu thép mang tên linh vật Rồng xây dựng đầu thế kỉ 20“. Dưới đây là nội dung bài viết:

Cầu Long Biên (Hà Nội) và cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa) – Là hai cây cầu thép, nhịp lớn có kết cấu rất tiêu biểu, mang trên mình nhiều chứng tích lịch sử, rất đáng ghi nhớ trong lịch sử ngành cầu Việt Nam.

Cầu Long Biên (Hà Nội):

Cầu Long Biên, ảnh sưu tầm trên internet

     Cầu Long Biên khởi công ngày 12/9/1898, khánh thành năm 1902, tên khai sinh là cầu Doumer – lấy theo tên của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, người đưa ra ý tưởng xây dựng cầu. Tháng 7/1945, bác sĩ Trần Văn Lai – Thị trưởng Hà Nội thời chính phủ Trần Trọng Kim đã đổi tên là cầu Long Biên. Hãng Daydé & Pillé (Pháp) trúng thầu thiết kế và thi công.

     Cầu dài 1682 m, gồm 19 nhịp dàn thép xe chạy dưới, 02 mố và 17 trụ cầu kết cấu đá xây, móng trụ cầu là giếng chìm. Cầu có một làn đường sắt khổ 1m chạy giữa, hai làn xe cơ giới khổ 2m chạy hai bên và ngoài cùng là làn bộ hành.

     Kết cấu nhịp cầu là các dàn thép dài 75m, xen kẽ là nhịp thừa hưởng hai đầu mút thừa (chìa) 27,5m x2 + dầm treo trên hai đầu mút thừa dài 51,2 m, tổng nhịp dàn này dài 106,2 m. Sơ đồ nhịp: 78,7+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 78,7 = 1682m

Bản vẽ thiết kế cầu Long Biên

     Cầu sử dụng hết 30.000 m3 đá, 5300 tấn thép. Giá dự thầu là: 5.116.334 francs, Tổng chi phí thực tế là: 6.200.000 francs (đầu tư giai đoạn 1, chưa có hai làn xe ô tô).

     Hệ dàn thép dài 75 m + hai đầu chìa 27,5m x 2 (mút thừa) là thiết kế hiện đại thời điểm đó. Hơn 80 năm sau, cầu Chương Dương được xây dựng cách cầu Long Biên xấp xỉ 600 m về phía hạ lưu, là một công trình lớn, giải quyết tốt được vấn nạn ách tắc giao thông khi cầu Long Biên bị quá tải về lưu lượng phương tiện, tải trọng, khổ làn xe. Nhưng về kết cấu nhịp, các kỹ sư Việt Nam thiết kế cầu Chương Dương vẫn chỉ lựa chọn kết cấu dàn (dầm) hệ đơn giản, hai đầu kê trên gối tại các trụ, mố – một kết cấu được gọi là “sơ đẳng” trong cơ học kết cấu, tất nhiên với loại kết cấu này, so với các loại sơ đồ nhịp khác (như hệ dàn liên tục), nếu cùng ngoại lực thì nội lực trong dàn lớn nhất, độ võng lớn nhất… và dẫn đến tốn vật liệu nhất.

Bản vẽ thiết kế cầu Long Biên

     Việc xử lý gối cầu trên đầu dàn mút thừa cho dàn (dầm) treo dài 51,2m cũng là một giải pháp phức tạp với các kỹ sư (ảnh).

Vị trị gối tại đầu mút thừa

     Với 17 móng giếng chìm sâu 30m tính từ mực nước thấp nhất, thi công theo phương pháp thùng chụp hơi ép trên dòng sông Hồng hung dữ, địa chất phức tạp cũng là một kỳ tích của kỹ sư Pháp và nhân công, thợ cầu Việt Nam. Hồi ký của Paul Doumer đã ghi lại: khâm phục những người thợ Việt Nam làm việc dưới độ sâu như vậy mà không sợ hãi, không một lời phàn nàn. Sau 4 giờ làm việc trong điều kiện khắc nghiệt dưới lòng sông (trong các thùm chụp bơm áp suất cao), các tốp thợ từ từ lên mặt đất và được các nhóm khác xuống thay. Họ được đưa về lán trong công trường, được bồi dưỡng thuốc bổ và được xoa bóp, luôn có một bác sĩ theo dõi sức khỏe của họ. Qua hồi ký của Paul Doumer, chúng ta thấy một quy trình thi công, an toàn đã được áp dụng nghiêm ngặt tại công trình xây dựng cầu Long Biên. Dẫu vậy, những thiệt hại về con người vẫn xảy ra, một số nhân công người Việt đã chết do tai nạn lao động… nhưng công sức, các đóng góp và những kinh nghiệp rút ra sau các tai nạn đã giúp công trình hoàn thành thì còn mãi cùng với tuổi thọ hơn trăm năm qua của cầu Long Biên.

     Theo các tư liệu, toàn bộ 19 nhịp dàn thép được lắp ráp trên hệ đà giáo. Các biện pháp khác như: Lắp hẫng, lao dọc, chở nổi… không phù hợp và không được áp dụng tại cầu Long Biên.

Ảnh các dàn cầu Long Biên được lắp ráp trên đà giáo. Ảnh sưu tầm trên internet

     Cầu Long Biên được đầu tư theo hai giai đoạn. Đưa vào khai thác năm 1902, cầu mới chỉ có đường sắt và bộ hành. Hai mươi năm sau, cầu được đầu tư giai đoạn 2: thi công lắp ráp hai làn xe ô tô khổ 2 m và hoàn chỉnh các hạng mục đường lên xuống. Cầu hoàn tất toàn bộ công việc xây dựng, chính thức khánh thành vào ngày 25/4/1924.

Ảnh khánh thành giai đoạn 2 ngày 25/4/1924: thi công hai làn ô tô và lối lên xuống

     Cầu Long Biên quy mô hoành tráng, đồ sộ, dài tuốt tắp bắc qua dòng Sông Cái chạy quanh thủ đô ngàn năm văn hiến. Thiết kế tổng thể đẹp, hệ thanh biên trên dàn thép nhấp nhô như các đợt sóng nước. Cầu tạo điểm nhấn kiến trúc, thu hút nhiều các họa sĩ đến ký họa và để lại nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Cũng có một số bức tranh, bức họa đường phố vẽ cầu Long Biên tạo cảm giác hụt hẫng đôi chút cho các nhà làm cầu, khi các họa sĩ do vô tình đã vẽ thiếu thanh dàn đứng phía trên đỉnh trụ – một thanh dàn “quan trọng” bậc nhất, rất đặc thù trong hệ dàn thép cầu Long Biên vì nó phải gánh toàn bộ tải trọng nhịp (phản lực gối). Sau cầu Long Biên, với các hệ dàn liên tục hay mút thừa các nhà thiết kế đông tây không còn “ưa” dùng hệ dàn có thanh đứng kiểu này nữa, thay vào đó, tại vị trí phía trên gối cầu sẽ có hai thanh xiên chịu nén và một thanh biên trên chịu kéo được triệt để áp dụng.

     Cách đây 30 năm, trên giảng đường đại học, khi giới thiệu về các cầu lớn của VN, thầy Phạm Duy Hòa, sinh viên gọi là thầy Hoà “trống” (do thầy là một “cây” trống cừ khôi trong ban nhạc sinh viên) chưa nhắc đến cầu Chương Dương, sinh viên hỏi, Thầy bảo: À, về kết cấu nếu so với cầu Long Biên, cầu Chương Dương còn thua ở cái hai cái đầu mút thừa… Một câu nói mà tôi tâm đắc và nhớ suốt 30 năm qua.

     Cầu Long Biên đã hơn trăm năm gánh vách nhiệm vụ là huyết mạch giao thông. Tồn tại cùng lịch sử dân tộc trong suốt thế kỷ 20 đầy biến động, cầu mang trên mình những giá trị văn hóa và là chứng tích lịch sử.

     Cầu chứng kiến đoàn quân và dân Thủ Đô sau 60 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, sáng tạo “Cảm tử cho Tổ Quốc quyết sinh”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não, bảo vệ cho kế hoạch tản cư… đã bí mật rút khỏi Hà Nội, hẹn ngày mai về lấy lại Thủ đô:

“Nhớ một đêm nào
Đoàn quyết tử rút khỏi chân cầu
Để lại sau lưng phố phường cháy lửa
Chỉ xuống dòng sông nước đỏ
Hẹn mai về lấy lại Thủ đô!

Chúng ta về lấy lại Thủ đô
Cầu trầm lặng nhớ bao người ngã xuống
Buổi nào Thăng-long rũ tung xiếng nặng…
Dòng sông dài như tình yêu của ta.”

(Trên cầu Long Biên – thơ Lưu Quang Vũ)

     Long Biên cũng là cây cầu đã “tiễn đưa” đoàn quân viễn chinh Pháp rút khỏi Hà Nội để về nước sau thất bại nặng nề tại Điện Biên Phủ, buộc Pháp phải ký hiệp định Genève: đình chiến, công nhận độc lập, chủ quyền cho Việt Nam.

Quân Pháp rút qua cầu Long Biên về nước năm 1954. Ảnh sưu tầm

     Trong chiến tranh chống Mỹ phá hoại, cầu Long Biên là biểu tượng kiên cường, hiên ngang của người Hà Nội trước bom đạn.

     Tồn tại qua hai thế kỉ, Cầu Long Biên nay đã già nua, chắp vá, nhưng vẫn tiếp tục gồng mình ngày đêm cho các chuyến tầu, cho người và hàng hóa qua lại hai bờ sông Hồng.

Bên kia cầu, chùa Bồ Đề như chiếc nấm linh chi cổ đại

Cầu Long Biên gù lưng người phu già

Sớm chiều cõng chuông qua sông

Nhắc nhở lẽ huyền vi Hà nội


Chiếc cầu đi suốt đời ta…

Đầy vết dao binh lửa

Dạy ta vượt lên sóng gió

Làm người

Ba mươi năm

Ta lại đạp xe qua chiếc cầu cũ kỹ

Trong sớm thu dịu ngọt

Nghe sông Hồng vặn mình trong cát

Gió rít mỗi trụ cầu

Thấy màu mắt những anh hùng trong thép

Thấy những sóng người dào dạt

Trùng trùng lớp lớp đi xa


Ta muốn nói lời chia tay

Với nghìn năm đang qua

Với Thăng Long từng ngày trẻ lại

Với chiếc cầu từng giờ hấp hối

Đang giang tay đón những người đi bộ cuối cùng qua sông


Rồi một ngày đẹp trời

Hà Nội sẽ tiễn người vào lịch sử
Tiếng chuông vang vang khắp bến Bồ Đề”

(Cầu Long Biên – thơ Nguyễn Khoa Điềm)

    Cầu Long Biên và mọi cây cầu như một cơ thể sống: sinh ra, làm việc và mất đi. Tôi mong một ngày gần đây, một cây cầu mới hiện đại hơn, hoành tráng hơn sẽ được xây dựng gần sát với cầu Long Biên. Ngoài gánh vách nhiệm vụ cao cả mà cầu Long Biên bàn giao cho, còn đảm đương thêm các công năng vận tải của hiện tại và tương lai 50, 100 năm sau. Khi đó, cầu Long Biên sẽ chính thức được “nghỉ hưu”. Các nhịp dàn quân dụng T66 và các trụ cầu được xây chen chắp vá sẽ được phá bỏ. Phần cầu còn nguyên vẹn phía bờ Hà Nội sẽ được bảo dưỡng, sơn sửa lại để tồn tại lâu dài, đóng vai trò là một bảo tàng, lưu giữ một di sản văn hóa, một chứng tích lịch sử của Thủ đô Hà Nội. Không còn chức năng vận tải giao thông, nhưng cầu Long Biên vẫn sống mãi và trở thành một điểm du lịch, một nơi “check in” thú vị của mọi người.

(Còn nữa…)

Tác giả: Nhữ Đình Văn – Cựu SV K33, Khoa Cầu đường, Trường Đại học Xây dựng

Tài liệu tham khảo:

  • Mỹ học Cầu Đường – PGS.TS Đào Xuân Lâm, GS.TS Đỗ Bá Chương, Nhà xuất bản Giao thông vận tải.
  • Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội (1875-1945), Nhà xuất bản Thế giới.